4) 2 CÁCH THỜ THÔNG DỤNG.



a. Tượng ba Ông: Quan Công ngồi giữa, tay vuốt râu (đôi khi vẽ tay kia cầm kinh Xuân thu). Sau lưng là Quan Bình giữ ấn (trái), Châu Thương cầm đao Thanh Long (phải). 

Châu Thương (cũng gọi Châu Xương, Châu đại tướng quân). Theo TQC (tr. 459, 460, 568), Quan Công đưa hai chị dâu (vợ Lưu Bị) tìm Lưu. Gần tới núi Ngọa Ngưu thì gặp tướng cướp Châu Thương, mặt đen, râu xồm, cao lớn, hình dung dữ tợn. Châu bỏ lâu la đi theo Quan. Nghe tin Quan Công và Quan Bình bị Tôn Quyền chém, Châu đâm cổ tự vẫn. Châu được tôn thờ là Cương trực Trung dũng Đại thiên tôn. Kinh MT tả: Phù thiên dũng tướng. Sát địa mãnh thần. Thiết tu ngân xỉ. Hắc diện châu thần. (Tướng khỏe phụ giúp trời. Thần khỏe trông coi đất. Râu sắt răng bạc. Mặt đen môi đỏ.) 

Quan Bình. Theo TQC (tr. 446-468), sau khi gặp Châu, Quan Công tiếp tục tìm Lưu Bị và Trương Phi. Đến Hà Bắc, gặp ông lão Quan Định có con thứ là Quan Bình biết võ, 18 tuổi, bèn xin Bình làm con nuôi. Kinh MT và các chùa thờ Quan Đế tôn Bình là Quan thái tử, tôn xưng là Cửu thiên Uy linh Hiển hóa Đại thiên tôn. 

b. Tượng năm Ông (ngũ công): Giống tượng ba Ông, nhưng vẽ thêm Trương Tiên cầm cung đứng sau Quan Bình; và Vương Thiên Quân cầm giản đứng sau Châu Thương. 

Vương Thiên quân là Thiên Lôi (Lôi Công, Linh Quan, Thái ất Lôi thinh Ứng hóa Thiên tôn). Kinh MT tả: Kim tinh châu phát. Hiệu tam ngũ hỏa xa Lôi Công. Phụng chủy ngân nha. Thống bách vạn tỳ hưu thần tướng. Phi đằng vân vụ, hiệu lịnh lôi đình. Giáng vũ khai tình, khu tà trị bịnh. (Mắt vàng tóc đỏ. Hiệu là Lôi Công coi ba mươi lăm xe lửa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc. Chỉ huy một trăm vạn thần tướng dũng mãnh. Lướt mây cưỡi mù, lịnh ban sấm sét. Tuôn mưa làm nắng, đuổi tà trị bịnh.) 

Trương Tiên là Linh ứng Trương tôn Đại đế Thất khúc Dục thánh Thiên tôn. Theo kinh MT, Trương phù trợ sản phụ, trẻ sơ sinh, v.v... Vũ khí là đạn vàng và cung trúc (kim đạn, trúc cung) nhưng có khi tranh thờ dân gian vẽ cầm cung và một mũi tên. 
Phía trên tượng năm ông thường viết bốn chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật”, tương truyền xuất hiện ở Trung Quốc từ đời Thanh, Càn Long thứ 46 (1781). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét